ĐÔI NÉT HÌNH TƯỢNG CON RỒNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT VÀ NHỮNG NHÂN VẬT LỊCH SỬ TIÊU BIỂU SINH NĂM GIÁP THÌN

Thứ bảy - 17/02/2024 03:12
Trong suốt bốn nghìn năm văn hiến kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho đến ngày nay, hình tượng con rồng luôn hiện diện, gắn bó trong đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Việt. Con Rồng là biểu tượng của phẩm chất cao đẹp, sức vươn lên mạnh mẽ và niềm tự hào của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử. Rồng là linh vật đứng đầu trong tứ linh ( Long, Lân, Quy, Phụng), với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, rồng là niềm tự hào về dòng giống, cội nguồn của người Việt. Mỗi người dân Việt Nam từ thuở ấu thơ đều được học bài học vỡ lòng về truyền thống dòng giống Rồng Tiên, với huyền sử Lạc Long Quân - Âu Cơ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con trai Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh ra trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Vua đã bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên"...
Linh vật rồng Quảng Trị mùa xuân năm Giáp Thìn 2024
Linh vật rồng Quảng Trị mùa xuân năm Giáp Thìn 2024

Trong suốt bốn nghìn năm văn hiến kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho đến ngày nay, hình tượng con rồng luôn hiện diện, gắn bó trong đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Việt. Con Rồng là biểu tượng của phẩm chất cao đẹp, sức vươn lên mạnh mẽ và niềm tự hào của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử.

Rồng là linh vật đứng đầu trong tứ linh ( Long, Lân, Quy, Phụng), với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên, rồng là niềm tự hào về dòng giống, cội nguồn của người Việt. Mỗi người dân Việt Nam từ thuở ấu thơ đều được học bài học vỡ lòng về truyền thống dòng giống Rồng Tiên, với huyền sử Lạc Long Quân - Âu Cơ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con trai Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh ra trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Vua đã bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên"...

Từ đó trải qua mấy nghìn năm lịch sử, các thế hệ người Việt truyền tụng rằng tổ tiên của chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, tượng trưng cho những phẩm chất cao đẹp, tính nhân văn, tinh thần cao thượng, sức mạnh và lòng quả cảm của dân tộc Việt Nam.

Vì sinh sống ở vùng lãnh thổ có nhiều biển cả sông nước, Hùng Vương đã dạy con dân của mình tục xăm mình hình rồng ở ngực, bụng và hai chân để không bị các loài thủy quái xâm hại. Trong đời sống dân gian, rồng còn tượng trưng cho thần linh, mây, mưa, sấm chớp... Hình tượng rồng tìm thấy trong văn hóa Đông Sơn, Âu Lạc với những hình trang trí chữ S và tục thờ tứ pháp, trong cung đình và đời sống dân dã.

Hình tượng con Rồng qua các thời kỳ lịch sử

Hình tượng con rồng Việt xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Khi dành được độc lập, nhà Lý lên ngôi và đặt tên nước là Đại Việt; hình ảnh "Rồng bay lên" - Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đặt tên cho đất đế đô. Rồng thời Lý còn tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước nên luôn được thể hiện trong khung cảnh trời mây, non nước.

Rồng thời Trần thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lý nhưng có những biến đổi về chi tiết. Dạng tự chữ "S" dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi, đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Từ nửa cuối thế kỷ XIV, con rồng đã vượt ra khỏi kiến trúc cung đình để có mặt trong các kiến trúc dân dã, không chỉ có trong điêu khắc đá và gốm mà còn xuất hiện trên điêu khắc gỗ ở các đình chùa.

Đến thời Hậu Lê, rồng thay đổi hẳn. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm Tứ linh (bốn con vật thiêng) tượng trưng cho uy quyền của vương triều. Rồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là Lân (tượng trưng cho sự thái bình và minh chúa), Quy (con rùa - tượng trưng sự bền vững của xã tắc) và Phượng (tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại).

Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi...

Rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai con rồng chầu mặt trăng (lưỡng long chầu nguyệt), chầu hoa cúc, chầu chữ thọ...

Trong đời sống tâm linh của người Việt, rồng được gắn với những điều huyền bí về long mạch, phong thủy ("mộ táng hàm rồng", "tả thanh long, hữu bạch hổ"...).

Hình tượng rồng thật thân thiết, sâu đậm trong tâm thức người Việt. Các triều đại vua chúa ngày xưa đưa múa rồng trở thành loại hình múa nghệ thuật truyền thống không thể thiếu trong các lễ trọng của cung đình. Trong đời sống dân gian, rồng được thể hiện rất phong phú: múa rồng trên sân đình vào các dịp hội hè, lễ tết; trò chơi rồng rắn lên mây của trẻ con; rồng trong tranh dân gian Đông Hồ, rồng trên giấy diệp...

Khắp cả ba miền đất nước đều có những công trình, địa danh gắn với rồng, như: Hoàng thành Thăng Long, vịnh Hạ Long, đảo Bạch Long Vĩ, cầu Long Biên, cầu Thăng Long, cầu Hàm Rồng, tỉnh Vĩnh Long, sông Cửu Long...

Ngày nay, bước vào thời đại công nghiệp, kỹ thuật số, người Việt không quên kết nối giữa truyền thống và hiện đại, hình tượng con rồng Việt vẫn được ngưỡng mộ đưa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau.

Chào năm mới Giáp Thìn 2024, chào một mùa xuân mới với những tưởng nhớ hoài niệm trong dạt dào cảm xúc thiêng liêng, sau đây tôi xin giới thiệu những nhân vật lịch sử nổi tiếng sinh năm Giáp thìn của dân tộc Việt Nam.

1.Phan Đình Phùng (1843-1896)

Phan Đình Phùng hiệu là Châu Phong (tuổi Giáp Thìn), là một lãnh tụ tiêu biểu của phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ 19. Ông sinh năm 1843, ở làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình nho học. Phan Đình Phùng là con cụ phó bảng Phan Đình Tuyến, em ruột chí sĩ Phan Đình Thông và cử nhân Phan Đình Thuật, anh ruột phó bảng Phan Đình Vận, chí sĩ, Anh hùng chống Pháp. Ông là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.

2.Nguyễn Thái Học (1904-1930)

Nguyễn Thái Học sinh năm Giáp Thìn 1904, quê làng Tổng Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Lúc bé học chữ Hán ở nhà rồi học trường Pháp-Việt tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1926 khi đang học trường Cao đẳng Thương mại ông đã nhiều lần gửi yêu cầu của mình lên chính quyền Pháp nhưng đều không được chấp nhận, năm 1927 lập ra tổ chức Cách mạng Việt Nam Quốc dân đảng với mục đích “liên lạc tất cả anh em đồng chí không phân biệt giai cấp tôn giáo, dùng võ lực để lấy lại quyền độc lập cho nước Việt Nam,” lập một chính phủ cộng hòa theo chủ nghĩa dân chủ xã hội.

Năm 1930 tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái nhưng thất bại, ông bị thực dân pháp xử tử cùng 12 đồng chí vào ngày 17/6/1930.Trước lúc hy sinh ông đã tuyên bố “không thành công thì cũng thành nhân” quả thực như vậy, mặc dù cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng đã có một tiếng vang rất lớn, tên tuổi của ông đã được ghi danh sử sách.

3.Trần Phú (1904-1931)

Ông sinh năm Giáp Thìn (1904), tại xã Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh, đỗ đầu trường Cao đẳng tiểu học (1922), rồi về dạy trường tiểu học Cao Xuân Dục. Bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của ông là được cử sang Quảng Châu bắt liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tại đây, Trần Phú đã gặp Nguyễn Ái Quốc và được dự lớp huấn luyện chính trị do Người giảng dạy sau đó kết nạp vào Cộng sản Đoàn và học tập tại Trường đại học Phương Đông ở Moskva. Tháng 4/1930 ông về nước hoạt động, sau một thời gian ngắn được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được giao trọng trách dự thảo Luận cương chính trị và đã được Hội nghị Trung ương tháng 10/1930 thông qua. Luận cương chính trị của Trần Phú cùng với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được Hội nghị tháng 10 thông qua, đã xác định rõ con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Cũng trong hội nghị này ông được bầu làm Tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương, là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng. Trên cương vị là Tổng Bí thư, ông đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Tên tuổi của ông gắn liền với Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng. Ông bị bắt khi đang làm nhiệm vụ vào tháng 4/1931 tại Sài Gòn và hy sinh vào tháng 9/1931 tại nhà thương Chợ Quán khi mới 27 tuổi. Trần Phú một người cộng sản kiên trung, một người con ưu tú của Đảng. Ý chí và phẩm chất cách mạng của ông là tấm gương sáng cho những thế hệ mai sau.

Có thể nói, những nhân vật được nêu ở trên, họ là những con người xuất sắc nhất trên một phương diện nhất định nào đó. Họ đại diện cho trí tuệ, khát vọng, ý chí của người Việt Nam. Họ cũng chính là những con rồng nhỏ góp phần làm nên sức lớn-sức mạnh Việt Nam.

 

 

Tác giả bài viết: Hồng Võ

Nguồn tin: Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Quảng Trị:

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://doankhoi.tinhquangtri.vn là vi phạm bản quyền

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây