GIÁO DỤC CẢM XÚC XÃ HỘI CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON THEO MÔ HÌNH CASEL

Thứ năm - 22/05/2025 22:40
Cảm xúc xã hội là những năng lực tâm lý đặc biệt cần thiết của nghề sư phạm mầm non. Giáo dục cảm xúc xã hội giúp sinh viên có thể nhận biết và quản lý cảm xúc của mình, quan tâm đến người khác, ra quyết định đúng đắn, cư xử một cách có đạo đức và trách nhiệm, phát triển những mối quan hệ tích cực, tránh những hành vi tiêu cực. Quá trình này được thực hiện trong quá trình đào tạo sinh viên ngành giáo dục mầm non tại trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị bằng những biện pháp cụ thể như: Phát triển nhận thức về vai trò của cảm xúc xã hội trong hoạt động nghề sư phạm mầm non; Sử dụng nguồn tư liệu đa phương tiện để giảng dạy; Yêu cầu cao trong dạy học kết hợp với tư vấn tâm lý; Tổ chức hoạt động thực tế môn học tại trường mầm non, và khuyến khích sinh viên tự chăm sóc sức khỏe tâm thần của bản thân.
Ảnh: Sinh viên ngành GDMN đi thực tế môn Tâm lý học trẻ em tuổi mầm non tại trường Mầm non Hoa Sen, Tp. Đông Hà, Quảng Trị
Ảnh: Sinh viên ngành GDMN đi thực tế môn Tâm lý học trẻ em tuổi mầm non tại trường Mầm non Hoa Sen, Tp. Đông Hà, Quảng Trị

GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ

Giáo viên là nghề thường xuyên đối mặt với những biến động cảm xúc đa dạng trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Bên cạnh những cảm xúc tích cực còn có cả những cảm xúc tiêu cực. Chúng là nguyên nhân dẫn đến căng thẳng tâm lý, gây ra tình trạng kiệt sức và làm suy giảm sức khỏe nghề nghiệp, hạn chế hiệu quả công việc của giáo viên.

Cùng với đào tạo chuyên môn, giáo dục cảm xúc xã hội (CXXH) cho sinh viên sư phạm là khâu quan trọng trong hình thành nhân cách nghề thầy giáo. Giáo dục cảm xúc giúp sinh viên sư phạm được trang bị những kỹ năng cụ thể về nhận diện, khám phá, bồi dưỡng, phát triển và quản lý cảm xúc của bản thân. Cảm xúc tích cực, phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy sức khỏe nghề nghiệp của giáo viên – Yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng giảng dạy, từ đó tác động tích cực đến sức khỏe và sự phát triển học tập của học sinh.

Bài viết này giới thiệu việc vận dụng mô hình giáo dục cảm xúc của Tổ chức Hợp tác về học thuật và học tập cảm xúc xã hội (Collaborative for Academic, Social and Emotional Learning – CASEL), để giáo dục cảm xúc xã hội (Social and Emotional Learning – SEL) cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non (GDMN) tại Trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) Quảng Trị.

1. Cảm xúc và giáo dục cảm xúc xã hội theo mô hình CASEL

Trong Tâm lý học, “cảm xúc là phản ứng rung chuyển của con người trước một kích động vật chất hoặc một sự việc, gồm hai mặt: 1) Những phản ứng sinh lí do thần kinh thực vật như tim đập nhanh, toát mồ hôi, hoặc run rẩy, rối loạn tiêu hóa; 2) Và phản ứng tâm lí qua những thái độ, lời nói, hành vi và cảm giác dễ chịu, khó chịu, vui sướng, buồn khổ có tính bột phát, chủ thể kiềm chế khó khăn” (Từ điển Tâm lí, Nguyễn Khắc Viện, 1995). Cảm xúc thường được biểu hiện bởi ba yếu tố đặc trưng sau: 1) Cảm giác được thể nghiệm hay là được ý thức về cảm xúc; 2) Các quá trình diễn ra trong hệ thần kinh, hệ nội tiết, hô hấp, tiêu hóa và các hệ khác của cơ thể; 3) Các phức hợp biểu cảm cảm xúc được quan sát, đặc biệt là những phức hợp phản ánh trên bộ mặt (Carroll E.Izard 1992).

Giáo dục CXXH, theo CASEL, là quá trình mà thông qua đó chúng ta học cách nhận biết và quản lý cảm xúc của mình, quan tâm đến người khác, ra quyết định đúng đắn, cư xử một cách có đạo đức và trách nhiệm, phát triển những mối quan hệ tích cực, và tránh những hành vi tiêu cực (Zins, Bloodworth, Weissberg & Walberg, 2004). CASEL đã đưa ra mô hình 5 lĩnh vực năng lực cốt lõi của giáo dục CXXH bao gồm:

  • Năng lực tự nhận thức bản thân (self-awareness): Là khả năng nhận diện và chấp nhận cảm xúc; nhận thức đúng đắn về bản thân; nhận biết điểm mạnh, nhu cầu và giá trị cá nhân của mình; ý thức về sự tự chủ và phát triển nhận thức.
  • Năng lực tự quản lý bản thân (self-management): Là khả năng tự quản lý, điều khiển nội tại và khả năng chuyển chúng thành hành động; kiểm soát sự bốc đồng, quản lý căng thẳng, tự động viên bản thân và tự kỷ luật; khả năng thiết lập những mục tiêu phù hợp và thiết lập kế hoạch hành động để đạt được những mục tiêu đó.
  • Năng lực ra quyết định có trách nhiệm (responsible decision making): Bao gồm khả năng nhận diện vấn đề và đánh giá tình huống nảy sinh vấn đề, sử dụng các kỹ năng giải quyết vấn đề hiệu quả, đánh giá và suy ngẫm về những giải pháp khác trong cuộc sống; phát triển ý thức trách nhiệm cá nhân.
  • Năng lực nhận thức xã hội (social awareness): Là khả năng tạo mối liên hệ hiệu quả với người khác, bao gồm khả năng hiểu được góc nhìn của người khác và thấu cảm với người khác; hiểu sự đa dạng chủng tộc và tôn trọng người khác, tôn trọng sự khác biệt.
  • Năng lực làm chủ các mối quan hệ (relationship skills): Thiết lập và duy trì các mối quan hệ lành mạnh dựa trên việc hợp tác và chống lại các áp lực xã hội không phù hợp; ngăn chặn, kiểm soát và giải quyết các mâu thuẫn giữa các cá nhân với nhau theo cách mang tính xây dựng; tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết.
2. Vai trò của giáo dục cảm xúc xã hội đối với sinh viên ngành Giáo dục mầm non

Sinh viên ngành GDMN sẽ trở thành giáo viên mầm non sau khi tốt nghiệp. Đối tượng lao động nghề nghiệp của họ là trẻ em từ 0 đến 6 tuổi. Ở lứa tuổi này trẻ tiếp thu kinh nghiệm xã hội chủ yếu bằng con đường vô thức. Mọi hành vi, cử chỉ và đặc biệt song hành với đó là thái độ cảm xúc của cô nuôi dạy trẻ trong quá trình hoạt động nghề nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ. Mặt khác, nuôi dạy trẻ ở lứa tuổi này, giáo viên mầm non còn trực tiếp và thường xuyên chịu tương tác trong mối quan hệ với phụ huynh bởi ý nghĩa, vai trò của trẻ em ở lứa tuổi này trong mỗi gia đình, cũng như quan điểm, quan niệm của phụ huynh và xã hội về vấn đề này. Trong hệ thống các mối quan hệ nghề nghiệp đó, đòi hỏi giáo viên mầm non luôn phải có những năng lực CXXH phù hợp vừa để đảm bảo hiệu quả, chất lượng của nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ, vừa để đảm bảo sức khỏe tâm thần của chính mình.

Giáo dục CXXH cho sinh viên cũng chính là hỗ trợ quá trình học tập, rèn luyện của họ diễn ra hiệu quả hơn. Hoạt động này giúp sinh viên có thể nhận diện được khả năng, điểm mạnh, điểm hạn chế của bản thân; Hiểu được sự khác biệt, quan điểm của người khác để xây dựng mối quan hệ; Có thái độ tích cực hơn với chính mình để tiến bộ hơn trong học tập, cuộc sống; Giảm thiểu các căng thẳng tâm lý để đạt những mục tiêu học tập.

Như vậy, giáo dục CXXH cho sinh viên ngành GDMN là quá trình giúp họ có được những năng lực CXXH mang tính đặc trưng của nghề sư phạm mầm non và cũng là quá trình giúp sinh viên đạt được các mục tiêu học tập, rèn luyện.

3. Biện pháp giáo dục cảm xúc xã hội cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non

Dưới góc độ của bộ môn Tâm lý học, Giáo dục học trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non, chúng tôi thực hiện những biện pháp sau đây để tăng cường giáo dục CXXH cho sinh viên:

Biện pháp 1: Phát triển nhận thức của sinh viên về vai trò của CXXH trong hoạt động nghề sư phạm mầm non.

Mục đích của biện pháp là giúp sinh viên hiểu rõ tầm quan trọng của cảm xúc trong hoạt động nghề sư phạm. Nhận thức là khâu đầu tiên trong cấu trúc tâm lý về hành vi của con người. Nhận thức đúng là cơ sở để chủ thể bộc lộ thái độ cảm xúc phù hợp và có được hành vi tương ứng.

Nội dung và cách thức thực hiện: Lựa chọn nội dung giảng dạy chính xác, khoa học để hình thành tri thức chuyên môn cho sinh viên một cách bền vững, đúng đắn. Lựa chọn sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học linh hoạt, phong phú, cụ thể hóa, tạo thuận lợi cho người học tiếp nhận tri thức.

Chẳng hạn, trong nội dung giảng dạy về vai trò của xúc cảm tình cảm đối với hoạt động của con người, chúng tôi sưu tầm, lựa chọn các ví dụ minh họa theo 2 hướng là xúc cảm tình cảm ảnh hưởng tích cực tới hoạt động và xúc cảm tình cảm ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động của chủ thể. Với hướng thứ nhất sẽ sử dụng hình ảnh đẹp, bài viết ca ngợi về những gương giáo viên mầm non yêu nghề, yêu trẻ và thành công của họ; Ở hướng thứ hai là những câu chuyện đáng tiếc về giáo viên chưa kiềm chế được cảm xúc dẫn tới những vi phạm như đánh đập, hành hạ trẻ.

Để “khắc sâu” vấn đề này, có thể dành những khoảng thời gian cho sinh viên cảm nhận tình huống, giả định mình là giáo viên trong tình huống đó thì sẽ ứng xử như thế nào và tiến hành thảo luận.

Biện pháp 2: Sử dụng nguồn tư liệu đa phương tiện để giảng dạy

Mục đích chủ yếu của biện pháp này là phát triển năng lực nhận thức xã hội (social awareness) cho sinh viên. Bằng những khảo sát “bỏ túi” trực tiếp trong các tiết dạy, chúng tôi thấy sinh viên GDMN còn nhiều hạn chế và ít quan tâm đến các vấn đề thời sự, xã hội. Số sinh viên quan tâm đến các vấn đề thời sự, xã hội chỉ khoảng 30-35% số lượng được khảo sát.

Nội dung và cách thức thực hiện: Cập nhật các vấn đề thời sự xã hội để khơi gợi, kích thích sự quan tâm của sinh viên.

Chẳng hạn, trong bài “Bản chất xã hội của tâm lý người”, chúng tôi lựa chọn một clip ngắn trên kênh Youtube của báo Thanh niên (link truy cập: https://www.youtube.com/watch?v=BmgazTUqlHY) làm tư liệu giảng dạy. Nội dung của clip tóm tắt về hậu quả của cơn bão số 3 (Yagi) đối với nước ta. Với clip này, ngoài khai thác nội dung chuyên môn liên quan đến bản chất tâm lý tốt đẹp của người Việt trong cuộc sống, chúng tôi khơi gợi cảm xúc thương yêu, đùm bọc, thấu cảm với mất mát, đau thương của người khác ở sinh viên.

Trong điều kiện thuận lợi của các phương tiện truyền thông hiện nay, việc sử dụng biện pháp này khá thuận lợi. Tuy nhiên, đòi hỏi giảng viên phải cập nhật được những vấn đề thời sự xã hội nổi bật và phù hợp, biết cân đối trong lựa chọn tư liệu thời sự, xã hội với nội dung kiến thức chuyên môn chính khóa.

 Biện pháp 3: Yêu cầu cao trong dạy học kết hợp với tư vấn nhanh giúp sinh viên điều chỉnh, phát triển năng lực CXXH của bản thân.

Mục đích của biện pháp nhằm giúp sinh viên điều chỉnh, phát triển năng lực CXXH của bản thân.

Nội dung và cách thức thực hiện: Giao nhiệm vụ học tập, hướng dẫn và khuyến khích sinh viên chủ động hoàn thành nhiệm vụ. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ trước lớp và trước giáo viên. Thông qua tương tác này, bên cạnh nội dung chuyên môn, giáo viên sẽ nhanh chóng phát hiện những hạn chế về năng lực CXXH cụ thể ở sinh viên.

Với cách thức này, chúng tôi đã hỗ trợ cho nhiều sinh viên mầm non khắc phục được những hạn chế năng lực CXXH, chẳng hạn: Quá hưng cảm khi trình bày vấn đề; sợ sệt, tự ti trước tập thể; có động tác thừa, cử chỉ thoái lui như lè lưỡi, ngoẹo cổ,… khi diễn đạt.

Để đảm bảo hiệu quả của biện pháp này cũng yêu cầu những kiến thức chuyên ngành và kỹ năng tư vấn chuyên biệt của giảng viên như, kiến thức Tâm lý học, Giáo dục học, Tâm lý học lứa tuổi, Tư vấn tâm lý học đường, cũng như sự nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, tế nhị, khéo léo,…

Biện pháp 4: Tổ chức hoạt động thực tế môn học tại trường mầm non.

Mục đích của biện pháp này là tăng cường trải nghiệm thực tế nghề nghiệp, trong đó có những trải nghiệm CXXH cụ thể cho sinh viên.

Nội dung và cách thức thực hiện: Sau nhưng nội dung giảng dạy về kiến thức Tâm lý học, Tâm lý học trẻ em tuổi mầm non, Giáo dục học mầm non, sẽ tổ chức cho sinh viên trải nghiệm thực tế tại các cơ sở GDMN.

Với những quan sát, tương tác trực tiếp với trẻ ở trường mầm non, giáo sinh sẽ có những căn cứ cụ thể để phát triển năng lực CXXH của mình như mô hình CASEL đề ra như tự nhân thức bản thân (self-awareness), tự quản lý bản thân (self-management),  nhận thức xã hội (social awareness),…

Biện pháp 5: Khuyến khích sinh viên tự chăm sóc sức khỏe tâm thần của bản thân.

Mục đích của biện pháp là kích thích sinh viên quan đến đến sức khỏe tâm thần của chính mình và biết cách chăm sóc sức khỏe tâm lý.

Nội dung và cách thức thực hiện: Hỗ trợ sinh viên tự nhận thức, tự đánh giá, tự khám phá bản thân mình; biết cách giảm thiểu lo âu, áp lực học tập, công việc; xây dựng vốn tâm lý phong phú để thúc đẩy những trải nghiệm cảm xúc tích cực.

Chẳng hạn, với chuyên môn của mình, trong giảng dạy bài “tự ý thức”, bài “cấu trúc nhân cách”, chúng tôi giới thiệu với sinh viên một số trắc nghiệm (test) tâm lý về tính cách, xu hướng (link truy cập: https://www.tracnghiemmbti.com/50-cau-hoi-trac-nghiem-mbti.html) để sinh viên tìm hiểu thêm về những đặc điểm tâm lý của chính bản thân mình. Đồng thời với đó là khuyến khích, khuyên bảo sinh viên học tập, rèn luyện, vui chơi, giải trí, sinh hoạt hằng ngày một cách lành mạnh, có kế hoạch, khoa học để có thể hạn chế những trải nghiệm xúc cảm tiêu cực.

KẾT LUẬN

Cảm xúc xã hội là những năng lực tâm lý đặc biệt cần thiết của nghề sư phạm mầm non. Giáo dục CXXH giúp sinh viên ngành GDMN có thể nhận biết và quản lý cảm xúc của mình, quan tâm đến người khác, ra quyết định đúng đắn, cư xử một cách có đạo đức và trách nhiệm, phát triển những mối quan hệ tích cực, và tránh những hành vi tiêu cực. Bằng những biện pháp cụ thể được tích hợp trong giảng dạy bộ môn Tâm lý học, Giáo dục học, việc giáo dục CXXH cho sinh viên ngành GDMN Trường CĐSP Quảng Trị đã đạt được những kết quả cụ thể góp phần phát triển nhân cách nghề nghiệp cho sinh viên.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Trường CĐSP Quảng Trị (2017). Đề cương chi tiết học phần Tâm lý học đại cương; Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non.

2. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Trần Trọng Thủy (2004). Tâm lý học đại cương. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

3. Website: https://www.youtube.com/watch?v=BmgazTUqlHY

4. Website: https://www.tracnghiemmbti.com/50-cau-hoi-trac-nghiem-mbti.html

 

 

Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Huy Tuyến - Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị

Nguồn tin: Hội Khoa học Tâm Lý Giáo dục Quảng Trị

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây